Chỉ định:
Griseofulvin điều trị các bệnh nhiễm nấm ngoài da, tóc và móng không đáp ứng với điều trị tại chỗ, bao gồm nấm da toàn thân, nấm da chân, nấm da đùi, nấm râu, nấm da đầu và nấm móng do các loài Trichophyton, Microsporum hoặc Epidermophyton nhạy cảm gây ra.
Liều dùng và cách dùng:
Người lớn: 2 viên – 4 viên/ngày, uống 1 lần hoặc chia làm nhiều lần.
Trẻ em (lớn hơn 2 tuổi): Thường dùng 10 – 20 mg/kg/ngày, uống 1 lần hoặc chia 2 lần với nấm da đầu.
Một số lưu ý đặc biệt về xử lý thuốc trước và sau khi sử dụng thuốc:
Không có yêu cầu đặc biệt về xử lý thuốc sau khi sử dụng.
Cách dùng:
Uống cùng hoặc sau bữa ăn.
Thời gian điều trị tùy thuộc độ dày của lớp sừng (keratin), vị trí nhiễm bệnh và đáp ứng của từng người bệnh. Cần điều trị liên tục ít nhất từ 2 đến 8 tuần với nhiễm nấm da và tóc, tới 6 tháng đối với nhiễm nấm móng tay và 12 tháng hoặc hơn với nhiễm nấm móng chân.
Chống chỉ định:
Người mẫn cảm với một trong các thành phần của thuốc.
Người bệnh bị rối loạn chuyển hóa porphyrin, bệnh gan nặng, bệnh lupus ban đỏ hệ thống (SLE) hoặc suy tế bào gan.
Phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú.
Không được dùng griseofulvin với mục đích dự phòng.
Cảnh báo và thận trọng:
Griseofulvin có khả năng gây độc nặng. Trị liệu với griseofulvin trong thời gian kéo dài, cần theo dõi định kỳ chức năng gan, thận và máu.
Ngưng dùng thuốc khi có hiện tượng giảm bạch cầu hạt. Một số hiếm trường hợp có thể xảy ra các tác dụng phụ nguy hiểm, thường do dùng liều cao và/hoặc điều trị kéo dài.
Vì griseofulvin đôi khi gây phản ứng mẫn cảm với ánh sáng, nên trong thời gian dùng thuốc, người bệnh cần tránh phơi nắng. Phản ứng mẫn cảm với ánh sáng có thể làm nặng thêm bệnh lupus ban đỏ.
Thuốc có nguồn gốc từ các loài penicillium, nên có khả năng dị ứng chéo với penicillin.
Thuốc này có chứa tinh bột mì, bệnh nhân bị dị ứng với lúa mì (khác với bệnh Celiac) không nên dùng thuốc này.
Thuốc này có chứa lactose. Bệnh nhân mắc các rối loạn chuyển hóa di truyền hiếm gặp về dung nạp galactose, chứng thiếu hụt lactase Lapp hoặc rối loạn hấp thu glucose-galactose không nên sử dụng thuốc này.
Tương tác, tương kỵ của thuốc:
Tương tác của thuốc với các thuốc khác và các loại tương tác khác:
Rượu: Uống rượu đồng thời với thuốc có thể làm cho tim đập nhanh, đỏ bừng và vã mồ hôi.
Phenobarbital: Có thể làm giảm nồng độ griseofulvin trong máu do làm giảm hấp thu griseofulvin và gây cảm ứng enzym cytochrom P450 ở microsom gan, do đó tốt nhất là không dùng đồng thời 2 thuốc này. Nếu trường hợp phải dùng đồng thời, thì nên chia liều griseofulvin thành 3 lần/ngày. Nên kiểm tra nồng độ griseofulvin trong máu và nếu cần phải tăng liều.
Các thuốc chuyển hóa enzym: Làm giảm nồng độ của griseofulvin trong máu.
Thuốc chống đông nhóm coumarin: Tác dụng của warfarin bị giảm; có thể cần điều chỉnh liều thuốc chống đông khi điều trị đồng thời và sau khi ngừng griseofulvin.
Thuốc tránh thai dạng uống: Dùng đồng thời với griseofulvin có thể làm tăng chuyển hóa estrogen trong các thuốc này dẫn đến mất kinh, tăng chảy máu giữa vòng kinh và giảm hiệu quả thuốc tránh thai.
Các thuốc khác: Dùng đồng thời griseofulvin và theophylin làm tăng thanh thải theophylin và rút ngắn nửa đời theophylin. Tuy nhiên, tăng độ thanh thải này không rõ ràng ở tất cả người bệnh dùng thuốc đồng thời.
Bắt đầu điều trị griseofulvin ở người đang dùng aspirin sẽ gây giảm nồng độ salicylat trong huyết tương.
Griseofulvin và cyclosporin dùng đồng thời có thể làm giảm nồng độ cyclosporin trong máu.
Griseofulvin có thể ngăn cản đáp ứng của bromocriptin.
Tương kỵ của thuốc:
Do không có các nghiên cứu về tính tương kỵ của thuốc, không trộn lẫn thuốc này với các thuốc khác.
Sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú:
Thời kỳ có thai:
Không dùng griseofulvin cho người mang thai hoặc phụ nữ không nên có thai trong vòng 1 tháng sau khi ngừng điều trị. Griseofulvin gây quái thai ở động vật và một số trường hợp báo cáo cho thấy thuốc này gây ra những bất thường ở thai nhi người. Vì griseofulvin có khả năng gây ra lệch bội lẻ (phân tách bất thường của các nhiễm sắc thể sau phân chia tế bào) ở tế bào động vật có vú phơi nhiễm với hợp chất trong nghiên cứu in vitro và in vivo, phụ nữ không nên dùng thuốc trong thời kỳ mang thai hoặc sẽ mang thai trong vòng một tháng sau khi ngừng điều trị.
Phụ nữ có khả năng mang thai hoặc đang sử dụng các biện pháp tránh thai nên tham khảo ý kiến bác sỹ cẩn thận trước khi điều trị với thuốc này.
Thời kỳ cho con bú:
Không có thông tin về việc griseofulvin có vào sữa mẹ hay không. Vì thế sự an toàn của trẻ bú mẹ chưa được thiết lập. Không nên dùng griseofulvin trong thời kỳ cho con bú.
Tác dụng của thuốc khi lái xe và vận hành máy móc:
Vì thuốc có thể gây nhức đầu, mệt mỏi, ngủ gà, chóng mặt, làm sút kém tính linh hoạt nên có ảnh hưởng đến khả năng lái xe và vận hành máy móc.
Tác dụng không mong muốn:
Các phản ứng có hại được phân nhóm theo tần suất: Rất thường gặp (ADR ≥ 1/10), thường gặp (1/100 ≤ ADR < 1/10), ít gặp (1/1.000 ≤ ADR < 1/100), hiếm gặp (1/10.000 ≤ ADR < 1/1.000), rất hiếm gặp (ADR < 1/10.000); không thể ước lượng tần suất được liệt kê “Chưa rõ tần suất”.
Tác dụng không mong muốn thường ở mức nhẹ và thoáng qua. Tỷ lệ các phản ứng nghiêm trọng do sử dụng griseofulvin rất thấp.
Thường gặp:
Hệ thần kinh: Nhức đầu đôi khi rất nghiêm trọng và thường biến mất khi tiếp tục điều trị.
Tiêu hóa: Biếng ăn, buồn nôn.
Ít gặp:
Hệ thần kinh: Mệt mỏi, chóng mặt, ngủ gà, ngủ lịm, rối loạn tâm thần, suy giảm đối với việc thực hiện các cố gắng thường xuyên. Trong những trường hợp hiếm hoi khi các cá nhân bị buồn ngủ trong khi dùng griseofulvin, họ không nên lái xe hoặc vận hành máy móc. Tác động của rượu tăng lên do griseofulvin cần phải được cảnh báo cho bệnh nhân.
Tiêu hóa: Tiêu chảy, nôn, ợ nóng, đầy hơi, khát nước, tưa miệng, xuất huyết tiêu hóa.
Da: Các phản ứng liên quan đến da bao gồm phát ban, mày đay lạnh và ấm, nhạy cảm với ánh sáng, ban đỏ và phát ban dạng sởi và có mụn nước.
Các hội chứng bệnh huyết thanh và phù mạch nghiêm trọng.
Hiếm gặp:
Bệnh lupus ban đỏ hệ thống, sự xuất hiện của hội chứng giống lupus, hoặc làm trầm trọng thêm lupus hiện có ở các bệnh nhân đang dùng griseofulvin.
Albumin niệu không có bằng chứng về suy thận, protein niệu, thận hư, độc với gan.
Rối loạn kinh nguyệt.
Hệ thần kinh: Viêm dây thần kinh ngoại biên, rối loạn thần kinh ngoại vi, rối loạn thị giác.
Tác động huyết học bao gồm giảm bạch cầu và giảm bạch cầu trung tính; thường biến mất cho dù tiếp tục điều trị. Các nghiên cứu máu nên được tiến hành ít nhất một lần mỗi tuần trong suốt tháng đầu điều trị hoặc lâu hơn. Phải ngưng dùng thuốc nếu giảm bạch cầu hạt xảy ra.
Sự gia tăng vừa phải nhưng không đều của protoporphyrin trong phân đã được ghi nhận khi dùng thuốc trong một thời gian dài.
Đã có báo cáo về các trường hợp hoại tử da nhiễm độc và hồng ban đa dạng.
Tác dụng giống estrogen đã được nhận thấy ở trẻ em.
Mặc dù nguồn gốc của griseofulvin là penicillium, sự nhạy cảm chéo của bệnh nhân đối với penicillin vẫn chưa được nhận thấy.
Hăm da do Candida có thể làm phức tạp liệu pháp griseofulvin.
Hướng dẫn cách xử trí ADR:
Phản ứng chung và độc:
Nhức đầu rối loạn hệ tuần hoàn trung ương và rối loạn tiêu hóa có thể khá nặng phải ngừng dùng thuốc.
Phơi nắng (ngay cả trong một thời gian ngắn) có thể gây phát ban, ngứa, làm đỏ hoặc biến màu da hoặc bỏng nắng nặng. Người bệnh cần phải tránh ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp, mặc quần áo bảo vệ, kể cả đội mũ và đeo kính râm, bôi kem chống nắng.
Phản ứng mẫn cảm:
Các phản ứng này phần lớn dưới dạng ban ở da, nhưng ít khi nặng và ít gặp. Phải chú ý bất cứ biến chứng nào đe dọa tính mạng như phản ứng quá mẫn cảm (phù mạch, bệnh huyết thanh, phản vệ) hoặc phản ứng độc nặng ở gan. Người bệnh có phản ứng quá mẫn nặng hoặc tổn thương nặng ở gan, thận, tạo máu phải nhập viện và nếu cần, phải theo dõi ở một cơ sở chăm sóc tích cực kèm giám sát cẩn thận hô hấp và tim mạch.
Người bệnh nên ngừng sử dụng thuốc và thông báo cho bác sỹ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc.
Quá liều và cách xử trí:
Quá liều:
Không có dữ liệu về sử dụng thuốc quá liều, không dùng quá liều chỉ định của thuốc.
Xử trí:
Không có thuốc giải độc đặc hiệu.
Rửa dạ dày kèm bảo vệ đường hô hấp có thể có ích. Không có bằng chứng ủng hộ dùng than hoạt, thuốc tẩy hoặc loại trừ thuốc bằng phương pháp ngoài cơ thể.
Điều trị triệu chứng và hỗ trợ.
Tích cực theo dõi để có biện pháp xử trí kịp thời.
Các đặc tính dược lực học:
Nhóm dược lý: Thuốc kháng nấm dùng toàn thân.
Mã ATC: D01BA01.
Griseofulvin là kháng sinh kìm nấm thu được từ việc nuôi cấy chủng Penicillium griseofulvum hoặc bằng các phương pháp khác. Tác dụng kìm nấm của griseofulvin trước hết là do phá vỡ cấu trúc thoi gián phân tế bào, nên làm ngừng pha giữa của phân bào, ức chế sự phân chia của tế bào nấm. Một cơ chế tác dụng khác cũng được đề cập đến là griseofulvin tạo ra DNA khiếm khuyết không có khả năng sao chép. Griseofulvin đọng vào các tế bào tiền thân keratin tạo ra môi trường bất lợi cho nấm xâm nhập. Da, tóc và móng bị nhiễm bệnh sẽ được thay thế bằng các mô lành không bị nhiễm nấm.
Griseofulvin có tác dụng đối với các nhiễm nấm ngoài da khó chữa và lan rộng. Griseofulvin ức chế phát triển các nấm da Trichophyton (đặc biệt là T. rubrum, T. tonsurans, T. mentagrophytes, T. verrucosum, T. megninii, T. gallinae và T. schoenleinii), Microsporum (như M. audouinii, M. canis, M. gypseum) và Epidermophyton floccosum.
Griseofulvin không có tác dụng trên vi khuẩn, các nấm Candida, Actinomyces, Aspergillus, Blastomyces, Cryptococcus, Coccidioides, Geotrichum, Histoplasma, Nocardia, Saccharomyces, Sporotrichum hoặc Malassezia furfur.
Các đặc tính dược động học:
Hấp thu: Griseofulvin sau khi uống, hấp thu thay đổi từ 25% đến 70%. Hấp thu tăng lên đáng kể nếu uống cùng hoặc sau khi ăn thức ăn có lượng chất béo cao. Nồng độ đỉnh trong máu đạt được trong vòng 4 giờ và duy trì khoảng 10 đến 20 giờ.
Khi uống một liều duy nhất 500 mg dạng vi tinh thể ở người lớn lúc đói, nồng độ đỉnh trung bình trong huyết thanh là 0,5 – 2 microgam/ml sau 4 giờ.
Phân phối: Sau khi hấp thu griseofulvin tập trung ở da, tóc, móng, gan, mô mỡ và cơ xương. Griseofulvin tích lũy vào các tế bào tiền thân keratin và có ái lực cao với các mô nhiễm bệnh. Thuốc cũng liên kết chặt chẽ với lớp keratin mới làm lớp keratin này chống lại sự xâm nhập của nấm vào các tế bào mới hình thành. Có thể phát hiện thấy thuốc ở vỏ ngoài của lớp sừng ngay sau khi uống. Nồng độ 1 microgam/g đã tìm thấy ở da trong vòng 4 giờ sau khi uống một liều duy nhất 500 mg dạng vi tinh thể và sau 8 giờ là 3 microgam/g. Nếu dùng liều 500 mg và cứ cách 12 giờ uống một lần thì da có thể đạt được nồng độ 6 – 12 microgam/g trong 30 giờ, khi dùng liều này kéo dài liên tục trong vài tuần thì nồng độ duy trì được là 12 – 25 microgam/g da và nồng độ đồng thời trong huyết thanh sẽ là 1 – 2 microgam/ml. Khi ngừng thuốc, nồng độ griseofulvin ở trong da giảm nhanh hơn so với trong huyết tương. Trong vòng 2 ngày sau khi ngừng thuốc, sẽ không còn tìm thấy ở da và trong vòng 4 ngày sẽ không còn trong huyết tương.
Khoảng 84% griseofulvin liên kết với protein huyết tương.
Chuyển hóa, thải trừ: Griseofulvin có nửa đời thải trừ 9 – 24 giờ. Griseofulvin chuyển hóa chủ yếu ở gan; thuốc bị oxy hóa khử methyl bởi enzym P450 và liên hợp với acid glucuronic chủ yếu ở gan. Chất chuyển hóa chính 6-demethyl griseofulvin không có tác dụng trên vi sinh vật.